Kiến trúc Đền Lăng

Đền Lăng còn lại tòa tiền đường, cung đệ nhị và cung chính tẩm được trùng tu vào đời nhà Nguyễn. Tòa tiền đường làm theo kiểu mái con chồng diêm và được dành nhiều mảng chạm khắc công phu nhất. Hệ thống cột cái, hệ thống câu đối tạo vẻ chắc khỏe và mềm mại cho tòa tiền đường. Ở hai vì gian giữa có lớp lớp các mảng phù điêu chạm rồng, ly, quy. Một số mảng mê còn chạm rồng chầu, chim phượng và hoa cúc rất tinh tế. Để gánh 4 trụ non, thợ chạm tạo bốn con nghê ghé vai đội trụ một cách sinh động, không rập khuôn, gò bó. Điều đặc biệt là các đề tài dân gian được khắc hoạ một cách khéo léo. Trên vì phía đông, người thợ khéo thể hiện một con thú bên hồ sen trong tư thế dấu mình, lẩn trốn trong lá sen cách điệu. Còn vì bên kia là cảnh con hổ đang ôm một cái dó lớn, bên cạnh đó là một con hổ khác đang đeo chiếc giỏ ở cổ.

Phía trong tòa tiền đường là đệ nhị cung và chính tẩm. Hai cung này chung một tòa bốn gian rộng, thiết kế theo phong cách thượng gường hạ kẻ. Hệ thống cột chính gồm 10 chiếc làm bằng gỗ lim theo kiểu búp đòng, đầu cột thon ngậm xà, chân cột thu nhỏ để hợp với hệ thống chân tảng. Cửa cung cấm được thiết kế ngạch ngưỡng theo lối cổ, vừa cắt mòn vừa soi chỉ. Tòa tiền đường, cung đệ nhị và cung chính tẩm đều được lợp bằng ngói nam cùng với hệ thống giao góc, dấu trụ, bờ dải, bờ nóc còn giữ được vẻ cổ kính của một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật.

Tất cả các cột của ba tòa đều được đặt trên chân tảng kích thước 50x50cm. Công trình đục chạm công phu, tạo chương với cảnh lưỡng long chầu nguyệt tinh vi nghệ thuật, tạo riềm trên, riềm dưới, riềm hai bên với những băng lá sòi, những mảng long vân, phượng vũ có sức truyền cảm cao. Trung tâm cửa võng nổi bốn chữ "Thánh cung vạn tuế" trong khung tròn rất đẹp. Cửa võng được sơn son thiếp vàng màu sắc óng ánh, ấm áp giúp cho công trình thêm hấp dẫn.

Bốn chiếc long đình có từ thế kỷ XIX trong có bài vị long ngai thờ vua Đinh Tiên Hoàng, 3 cha con vua Lê Đại Hành. Trong các long đình có bài vị, long ngai thờ vua Đinh, Lê Đại Hành và Trung Tôn, Ngọa triều đều vào cỡ lớn tới 170 cm và được tạo đáng theo tỷ lệ cân xứng, đặc biệt là chạm nổi, chạm thông phong nhiều đề tài hoa, lá, long, ly, quy, phượng rất tinh tế. Những hiện vật thế kỷ XIX này còn phảng phất đường nét Hậu Lê, song dáng cao, các xà đố thanh thoát mang phong cách thời Nguyễn. Đây cũng là hiện vật đặc trưng giai đoạn chuyển hóa giữa hai nền văn hóa Hậu Lê-Nguyễn.

Ngoài ra ở đây còn đôi hạc thờ thời Hậu Lê, đối tượng người nô lệ, chiếc sập thờ và hòm sắc đời Nguyễn… Đôi hạc thờ đền Lăng cao 250 cm cũng được tạo dáng sinh động, tư thế đứng chầu nghiêm túc, đôi cánh cụp sát thân, chiếc cổ cất cao chầu mà không cứng nhắc, chứng tỏ nghệ nhân đã kết hợp nhuần nhuyễn thực tế với cách điệu. Đáng lưu tâm hơn là lớp lớp lông cánh như lá hòa lại, như cài vào nhau rất tự nhiên. Trang trí trên đầu bờm gáy và cả bàn chân bám trên lưng rùa cũng được thể hiện một cách linh hoạt.

Chiếc sập thờ ở chính tẩm là hiện vật của thời Nguyễn nhưng cũng là loại đồ thờ quý hiếm. Sập có quy cách 220x180x85cm làm theo kiểu chân quỳ, khoẻ mà không nặng nề, ít cầu kỳ nhưng rất đẹp. Bao loan ở bốn góc mặt sập tạo ô hoạ tiết đơn giản nhưng rất đẹp. Cổ sập chạm nổi, chạm thông gió long hóa, tứ linh, chân sập tạo kiểu chân quỳ dạ cá với mây tản, lá lật cách điệu như bay, như cuốn, gây xúc cảm nhẹ nhàng cho người thưởng thức.

Ngoài ra, đền Lăng còn giữ được đôi quán tẩy thời Hậu Lê, đôi tượng người nô lệ và một số đồ thờ thời Nguyễn được chạm khắc tinh thế, sơn son thiếp vàng lộng lẫy.

Kiến trúc cũng như đồ thờ tự nơi đây tạo nên vẻ đẹp của Đền Lăng, một di tích lịch sử văn hoá của Thanh Liêm, Hà Nam. Những sản phẩm văn hoá thời Hậu Lê rất quý hiếm cùng với các đồ thờ tự thời Nguyễn của đền Lăng rất cần được giữ gìn cẩn thận.

Liên quan